Kinh tế - xã hội Chiến_tranh_Việt_Nam_(miền_Bắc,_1954-1959)

Miền Bắc không thuận lợi về nông nghiệp như miền Nam do đất canh tác ít hơn, lại hay bị lũ lụt. Thời Pháp thuộc, nông nghiệp miền Bắc có những năm thậm chí còn không đủ để nuôi sống người dân chứ không nói đến thặng dư. Trong khi những nông dân trung lưu miền Nam có thể sinh sống khá giả trên đất của họ. Những mặt hàng xuất khẩu truyền thống như gạo, cao su, hạt tiêu, cà phê nằm hầu hết ở miền Nam. Điều này gây khó khăn cho miền Bắc về ngoại thương. Miền Bắc có thuận lợi về khoáng sản, thuận tiện phát triển công nghiệp. Nhưng trước chiến tranh công nghiệp rất nhỏ lẻ, yếu ớt, lại bị tàn phá trong suốt 9 năm chiến tranh Đông Dương.

Thời kỳ này (1954-1960) là thời kỳ phục hồi. Giai đoạn này được nhà nước chia làm hai kế hoạch 3 năm 1954-1957 và 1958-1960. Các kế hoạch phục hồi kinh tế diễn ra thuận lợi, đến hết thời kỳ này đã có các chỉ tiêu ngang mức trước chiến tranh. Cuối thời kỳ này, các nền móng của hàng loạt các công trình lớn được xây dựng, chuẩn bị cho thời kỳ phát triển công nghiệp rất mạnh 1960-1964. Mức sống nhân dân đã ổn định cùng với việc phát triển phúc lợi xã hội. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chú trọng xây dựng con người hơn là phát triển công nghiệp, điều này đóng góp cho sức phát triển lâu dài của miền Bắc.

Nông nghiệp

Ngay sau khi chấm dứt chiến tranh, nhà nước thực hiện nhiều đợt cải cách ruộng đất tịch thu không bồi thường đất đai của những người bị quy là địa chủ chia cho nông dân thiếu đất. Sau đó nhà nước thực hiện chính sách hợp tác hoá nông nghiệp đưa tất cả nông dân miền Bắc vào hợp tác xã. Đồng thời chính quyền cũng tập trung phục hồi nông nghiệp.

Nông nghiệp miền Bắc lạc hậu do thiếu vốn và máy móc nhưng việc hợp tác hóa tạo ra những tổ chức kinh tế nông nghiệp lớn cấp làng xã, tạo điều kiện tập trung các nguồn lực và phát triển thủy lợi, áp dụng kỹ thuật mới. Lúc đó, các hợp tác xã nông nghiệp chưa bị đình đốn như sau này, có thể thấy những tranh ảnh hồi đó miêu tả hàng đoàn người dàn hàng ngang tát nước cứu lúa, điều không thể thực hiện được trước đây.

Phân hóa học nhanh chóng được sử dụng rộng rãi, dù trước đó còn xa lạ với đại bộ phận nông dân. Hệ thống thủy lợi cấp xã huyện ngày nay về cơ bản đã được hình thành thời kỳ này. Các công trình thủy lợi lớn thời cổ như Kênh Nhà Lê (đời Lê)[1], Kênh Thái Sư (đời Trần)[2] được nạo vét và đào thêm các kênh nhánh. Xây dựng rất nhiều các công trình hồ đập nhỏ và vừa như Cấm Sơn, Quan Thần. Công trình lớn Đại thủy nông Bắc Hưng Hải đảm bảo nước tưới cho Bắc Ninh, Hải DươngHưng Yên được xây dựng chủ yếu bằng sức người, đến nay vẫn có vai trò sống còn với nông nghiệp ở đó. Đê điều được củng cố, thời kỳ này các đê xung yếu sông Hồng như Đê Đìa[3] được đắp cao rộng gấp đôi trước đây, toàn bộ các điếm canh đê thời cổ được xây lại kiên cố.

Nhìn chung, hệ thống thủy lợi hiện nay của Đồng Bằng Bắc Bộ được xây dựng trong thời kỳ này. Đây là hệ thống quy mô rất lớn và mật độ dày đặc so với thế giới, kế thừa từ cổ đại, một niềm tự hào của người Việt. Sau này mới có máy móc, còn đến hết thời kỳ này, hệ thống vẫn được xây dựng bằng sức người.

Những vùng vành đai trắng[4] rộng lớn được gỡ mìn và phục hóa. Nhà nước tổ chức lực lượng thanh niên và bộ đội phục viên khai hoang những vùng đất mới có do thủy lợi, thành lập những nông trường lớn, thí điểm xây dựng nông nghiệp tiên tiến, ví dụ Nông trường Tam Thiên Mẫu[5], Nông trường Ba Sao.

Nhà nước động viên một số lượng lớn người di cư, huy động các trí thức y tế giáo dục, điều động các đơn vị bộ đội đến những vùng xa xôi để khai khẩn phát triển. Ví dụ như phát triển Sơn La, Lai ChâuĐiện Biên (hiện nay hội những trí thức Hà Nội di cư lên Tây Bắc vẫn sinh hoạt). Một ví dụ nữa là tiễu phỉ và xây dựng Hà Giang. Thị xã Hà Giang xây hoàn toàn mới, đến nay vẫn phần đông là người gốc xuôi. Các vùng núi thấp Bắc Bộ và đất đỏ Phủ Quỳ cũng thành lập các nông trường trồng cây công nghiệp. Ví dụ Nông trường Lục Nam[6] trồng dứa, hàng xuất khẩu rất giá trị hay Nông trường Phủ Quỳ trồng cao su.

Nhà nước khuyến khích và cộng tác với các lái buôn gia súc để chuyển trâu về miền xuôi làm sức kéo. Vấn đề này có tầm quan trọng lớn, vì trong chiến tranh, trâu bò bị chết, nhiều nơi nông dân phải đeo ách kéo cầy thay trâu bò. Thông thường, nhà nước không thu thuế và hỗ trợ tiền vận chuyển. Có những lái buôn ở Hưng Yên mỗi chuyến mang đến vài toa xe chở trâu. Việc nhiều gia đình nông dân mua chung trâu bò cũng được khuyến khích để tăng tốc độ phát triển đàn sức kéo. Sau này, việc khuyến khích buôn trâu bò mới bị hạn chế do nhà nước thực hiện chính sách cải tạo tư bản tư doanh. Nhà nước dùng phương pháp truyền thống thời phong kiến để quản lý trâu bò, chống giết thịt.[7]

Ngay năm 1955, nạn đói cơ bản đã được giải quyết[8], sau đó là những năm được mùa liên tiếp cho đến vụ chiêm 1960 mất mùa. Hết thời kỳ này, miền Bắc đã bắt đầu thu hoạch các cây công nghiệp, sau đó sản lượng tăng cao trong thời kỳ 1960-1964, phục vụ công nghiệp mới và xuất khẩu[9]. Nếu như năm 1955 được gọi là "năm rách", dân chúng phải lột cả vải sơn trên xác máy bay để mặc, thì đến năm 1960 mỗi người dân đã có vài bộ quần áo một năm, hơn thời trước chiến tranh.

Khai khoáng

Các mỏ lớn dễ phục hồi hơn vùng nông thôn, do các công nhân có kỷ luật và các cơ sở công nghiệp xa những vùng có chiến sự. Tuy vậy, giao thông bị phá hủy cản trở tốc độ xây dựng lại các mỏ. Việc mất khách hàng truyền thống tiêu thụ than đá cũng làm chậm sản lượng than và thiếu vốn đầu tư. Tuy vậy, hết thời kỳ này than đá đã sản xuất gần đạt mức trước chiến tranh, năm 1938.

Nhà nước xây dựng đội ngũ trí thức trắc địađịa chất quy mô có nhiệt tình lao động. Nhờ đó, một số mỏ lớn được phát hiện như mỏ Apatit Lào Cai, các mỏ sắt, mangan cho công nghiệp. Tuy nhiên, phát triển địa chất chỉ mạnh mẽ sau thời này, khi những nhà địa chất mới học xong về nước làm việc.

Các mỏ mới được xây dựng phục vụ kế hoạch phát triển thời kỳ 1960-1965, như các mỏ sắt, mangan, thiếc, than mỡ ở Đông Bắc Bộ phục vụ cho "thành phố gang thép" Thái Nguyên đang xây dựng[10].

Công nghiệp

Trước chiến tranh (1938), công nghiệp miền Bắc rất lạc hậu và nhỏ bé. Thời kỳ này, một kế hoạch đồng bộ xây dựng công nghiệp mới rất lớn được vạch ra và tiến hành. Song song với việc phục hồi giao thông là tổ chức các nông trường, mỏ khoáng cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy sẽ xây trong kế hoạch. Đến cuối thời kỳ này, một vài nhà máy mới đã đi vào hoạt động, nhưng phần lớn đang được xây dựng. Ví dụ: khu công nghiệp Thượng Đình, Nhà máy Trần Hưng Đạo, Trung Qui Mô, Dệt Nam Định. Những khu công nghiệp lớn chưa từng thấy được động thổ, như thành phố gang thép Thái Nguyên hay liên hợp các nhà máy dệt Nam Định[11].

Nhìn chung, việc phát triển công nghiệp mới gặp thuận lợi vì đây là thời kỳ ổn định của chế độ xã hội chủ nghĩa. Liên Xô đang chứng minh tính ưu việt của mình bằng sự phát triển nhanh chóng các ngành công nghiệp khổng lồ và hiện đại, bằng hệ thống y tế và giáo dục miễn phí có chất lượng tốt; Trung Quốc chưa rơi vào tình trạng hỗn loạn trong Cách mạng Văn hóa.

Thời kỳ này công nghiệp chưa phát triển nhưng đã giúp người dân sau chiến tranh đỡ cơ cực, các kế hoạch thời này về sau trở thành xương sống của công nghiệp Việt Nam. Việc phục hồi kinh tế với tốc độ cao và các kế hoạch đúng đắn đã làm tốc độ phát triển năm 1960-1964 cao vọt, đến năm 1964, công nghiệp miền Bắc đã vượt hàng chục lần trước chiến tranh (1938)[12].

Giao thông

Đường Hạnh Phúc dài 140 km, khởi công 1959, vừa làm vừa tiễu phỉ.

Sau chiến tranh, hầu như các cầu nhỏ và vừa bị phá hủy, đường sắt bị lột ray, đường bộ bị đào bới cản phá xe địch. Thời kỳ này, công nghiệp phát triển chậm vì phải đợi phục hồi giao thông. Các công ty công trình giao thông lớn ngày nay hầu hết được thành lập thời đó. Trung Quốc đã giúp đỡ nhiều trong việc này (tại đầu cầu Việt Trì cũ vẫn còn bia tưởng niệm liệt sĩ Trung Quốc hy sinh trong khi xây dựng cầu này). Đường giao thông lớn được phục hồi và chuyển từ 6 mét trước chiến tranh thành 8 mét và hơn nữa. Thiết bị được nhập khẩu số lượng lớn. Tiêu chuẩn giao thông thời kỳ này rất nhỏ so với ngày nay, nên toàn bộ các cầu đường xây dựng ngày đó nay đã làm lại.

Hết thời kỳ này, hệ thống giao thông đã hoạt động như trước chiến tranh, khổ đường và các cầu mở rộng so với trước đây. Đường sắt đến Vinh, các cảng biển và đường sắt quốc tế là yếu tố tiên quyết để nhập khẩu hàng hóa trong thời kỳ xây dựng lớn sau đó[13].

Các phương tiện giao thông bộ hết sức khan hiếm, đáng kể nhất là số xe tải thu được của Pháp trong chiến tranh và số xe tải có được do viện trợ. Việc tổ chức sản xuất xe đạp, xe máy, máy kéo... mới trên kế hoạch. Các nhà máy đóng tàu thuyền ít và hoạt động chậm. Nhà nước thành lập các hợp tác xã đóng tàu thuyền, chủ yếu bằng phương pháp thủ công.

Cảng Hải Phòng được lắp thiết bị mới. Rất nhiều cảng bí mật như Mũi Chùa, Cái Lân được xây dựng phục vụ chiến tranh. (Cảng Mũi Chùa ở Tiên Yên Quảng Ninh có kho nằm trong lòng núi, nay đã bịt kín. Cảng Cái Lân nay trở thành khu công nghiệp lớn). Các cảng bí mật này đảm bảo nhập hàng hóa và chuyển vũ khí vào Nam khi Mỹ đánh phá ách liệt. Một số cảng dân sự lớn được nạo vét như Hạ Long, Cửa Ông, Cảng nổi Bái Tử Long, Bến Thủy, mực nước sâu, luồng lạch tốt hơn cảng Hải Phòng - cảng duy nhất trước chiến tranh.

Trong thời kỳ này cũng đã mở Đường hạnh phúc[14] lên vùng cao Hà Giang năm 1959. Con đường dài 140 km trên vách đá nhưng chỉ có hai xe tải chạy than là công cụ cơ giới khi làm đường. Khi làm Đường Hạnh Phúc phải treo công nhân khoan lên vách đá dựng đứng đã nói lên những khó khăn và dũng cảm của ngày đó[15].

Thương mại

Ban đầu, nội thương vẫn trong tay những cửa hàng cá nhân buôn bán nhỏ lẻ, hoạt động chủ yếu trong các chợ. Các chính sách cải tạo vì thế ít ảnh hưởng đến nội thương cho đến khi xuất hiện các hợp tác xã mua bán và công ty thương nghiệp của nhà nước với nguồn hàng dồi dào hơn các cá nhân. Các tổ chức thương nghiệp nhà nước xuất hiện cùng với chính sách phân phối hạn chế chặt chẽ thương nghiệp. Ngoài các công ty thương nghiệp nhà nước, mọi hình thức thương mại khác không do nhà nước thực hiện đều bị coi là bất hợp pháp. Người dân mua hàng hoá bằng cách cầm phiếu mua hàng được phân bổ đến các cửa hàng. Chính sách này thực chất là một hình thức phân phối theo đầu người của thời chiến. Chỉ có những hàng hóa bình dân tối cần thiết được sản xuất và mua bán. Các hàng hóa được coi là xa xỉ bị cấm đoán. Tuy thắt chặt nội thương, nhưng lượng hàng hóa tăng cùng phát triển kinh tế vẫn làm dân chúng dễ chịu hơn những năm tháng trước chiến tranh và chiến tranh.

Ngoại thương phát triển nhảy vọt do nhu cầu nhập khẩu thiết bị. Tuy nhiên, giao thông chưa được phục hồi không cho phép số lượng hàng hóa lớn. Chủ yếu các hàng nhập lúc này là phương tiện và vật liệu cho các công trình và giao thông. Một số hàng nhập khẩu là thiết bị nông nghiệp, công nghiệp cho các cơ sở cung cấp nguyên liệu, dành cho các nhà máy sắp được xây dựng trong kế hoạch. Nguồn thanh toán chủ yếu là viện trợ không hoàn lại. Chính quyền đã sớm nhìn ra những lợi thế ngoại thương. Cuối giai đoạn này, một số hàng xuất khẩu đã xuất hiện, như hoa quả nhiệt đới, cao su... nhưng còn rất ít.

Y tế, giáo dục

Trong Kháng chiến chống Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập Việt Nam Học Hiệu ở gần biên giới, bên trong lãnh thổ Trung Quốc để duy trì ngành giáo dục.

Đến những năm 1954-1960, một kế hoạch khổng lồ cho phát triển y tế và giáo dục được xây dựng, bắt đầu được tiến hành và hoàn thành khoảng đầu những năm 1970. Kết quả: số lượng giáo viên, y bác sĩ, trường học, bệnh viện, số giường bệnh và chỗ ngồi học tăng 30-50 lần.

Khẩu hiệu của Hồ Chí Minh là: "Vì mục đích mười năm phải trồng cây, vì mục đích trăm năm phải trồng người". Khẩu hiệu này đã động viên dân chúng tham gia dạy và học, kể cả trong hoàn cảnh thời đó nhiều gia đình nông dân lúc đó không muốn cho con cái đi học mà để chúng ở nhà làm việc, họ chưa từng biết chữ và chưa nhận thấy giá trị của kiến thức. Chính phủ đề cao chủ nghĩa dân tộc và tinh thần đoàn kết Bắc-Nam, phù hợp với hoàn cảnh chia cắt về chính trị khi đó.

Các trường Đại học Sư phạm, Đại học Bách Khoa, Đại học Tổng hợp, Đại học Y, Đại học Dược được thành lập và mở rộng. Việc học hoàn toàn miễn phí, hình thức tuyển chọn là cử tuyển.[16] Sinh viên có tiêu chuẩn lương thực và vải mặc như người đi làm. Những học sinh giỏi nhất được cử đi học ở nước ngoài từ trong Kháng chiến chống Pháp. Điều này giải phóng một nguồn lực tri thức lớn trong nông dân. Những trí thức trưởng thành giai đoạn này về sau là lực lượng lãnh đạo kinh tế-kỹ thuật của Việt Nam. Với người lớn, phong trào Bình dân học vụ và các lớp bổ túc, xóa nạn mù chữ mở rộng khắp, hết thời kỳ này về cơ bản đã xóa được nạn mù chữ.[17]

Các trí thức đi du học thời này khi trở về đã đặt nền móng cho khoa học của nước Việt Nam mới. Những nước đào tạo nhiều cho Việt Nam là Tiệp Khắc, Liên Xô, Trung Quốc. Thời kỳ sau thì gần như tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đào tạo cho Việt Nam. Từ thời kỳ này, người Việt Nam có cơ hội học tập nghiên cứu trong những trường đại học và viện nghiên cứu hàng đầu thế giới.

Đoàn Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô đã đến miền Bắc tìm hiểu và giúp xây dựng kế hoạch phát triển các cán bộ có trình độ cao.

Trước đây, nhiều tỉnh đông dân như Thái Bình chưa có trường cấp 3 (trung học), điều này gây khó khăn cho học sinh, do phải đi trọ học tốn kém. Cùng với số lượng thầy giáo mới được đào tạo, số lượng các trường tăng theo cấp số nhân. Việc tăng số lượng các trường diễn ra cùng mới việc tăng mức phổ cập giáo dục, từ xóa nạn mù chữ đến hết cấp 3. Hệ thống trường giáo dục phổ thông ngày nay được hình thành hoàn tất khoảng những năm 1970.

Khoa học y tế Việt Nam khá phát triển, ngay từ thời kỳ này đã chế tạo được các sản phẩm tiên tiến như vắc-xin, kháng sinh. Tốc độ xây dựng các bệnh viện cũng nhanh như trường phổ thông. Trước chiến tranh nhiều tỉnh chưa có bệnh viện, hệ thống các bệnh viện ngày nay được hình thành xong khoảng những năm 1970. Việc chữa bệnh thời kỳ này hoàn toàn miễn phí.

Ở miền núi, y tếgiáo dục được các đơn vị bộ đội, biên phòng đảm nhiệm. Nhà nước động viên những đợt giáo viên và y bác sĩ di cư đến vùng núi xa xôi, như Tây Bắc, Hà Giang.

Sự phát triển về y tế giáo dục trong thời kỳ này là một thành công nhảy vọt có tầm quan trọng ảnh hưởng lớn tới các mặt khác trong xã hội, để đến những năm 1960 sau đó có được các cán bộ trình độ cao. Đến khi hòa bình lập lại, miền Bắc mới có 700 cán bộ chuyên môn có trình độ đại học. Nhưng sáu nǎm sau, đã đào tạo 2.500 cán bộ có trình độ đại học và trên 10.000 cán bộ trung cấp chuyên nghiệp.[18] Năm 1960 có 1.815.000 học sinh phổ thông, 2.400 lưu học sinh đang học ở nước ngoài, trong nước có 9 trường đại học với 11.070 sinh viên, có 50 trường trung cấp chuyên nghiệp với 26.330 học sinh.[18] Trong 5 nǎm, sẽ có thêm gần 25.000 cán bộ tốt nghiệp đại học và gần 10 vạn cán bộ tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp[19].